Ngày nay, di cư lao động (xuất khẩu lao động) đã trở thành trào lưu trên toàn cầu, nó tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của mỗi quốc gia. Thúc đẩy lao động di cư hợp pháp, phòng chống lao động di cư trái phép, đảm bảo lao động di cư an toàn và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người đi xuất khẩu lao động là mục tiêu chung của nhiều quốc gia trên thế giới và cũng là chính sách nhât quán của chính phủ Việt Nam.
Thực tế cho thấy, dòng người lao động ra nước ngoài làm việc chủ yếu là từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Tuy nhiên, cũng có một phần diễn ra giữa các nước đang phát triển từ những nước nghèo hơn tới các nước phát triển giàu có hơn.
Dù vậy, trong mọi trường hợp, đích đến của những người lao động di cư là các nước có nhiều cơ hội việc làm và cải thiện cuộc sống hơn so với nước mình.
Số người lao động đi làm việc ở nước ngoài hiện cao hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại, và ngày càng có thêm nhiều người trên thế giới ra nước ngoài làm việc theo ước tính của tổ chức lao động quốc tế (ILO) trung bình cứ 25 người lao động trên thế giới thì có 1 người là lao động di cư. Số lượng lao động di cư trên thế giới trong những thập kỷ gần đây tăng nhanh. Sự gia tăng nhanh chóng của tình trạng lao động di cư trong những thập kỷ gần đây đã đặt ra yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động di cư trên toàn cầu đối với tất cả các quốc gia nhận và gửi lao động. Pháp luật quốc tế, khu vực và pháp luật quốc gia về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài cần liên quan chặt chẽ với nhau nhằm tạo cơ chế chung trên bình diện toàn cầu về bảo vệ người lao động di cư.
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC VỀ BẢO VỆ NGƯỜI ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
HIẾN CHƯƠNG LIÊN HỢP QUỐC
Có thể nói việc đảm bảo quyền con người là một nhiệm vụ quan trọng của Liên hợp quốc. Để đạt được mục tiêu này, đồng thời thực hiện quy định của Điều 55 của Hiến chương, Liên hợp quốc đã thành lập ra Ủy ban quyền con người. Ủy ban Quyền con người Liên hợp quốc tuy không trực tiếp xử lý các vấn đề liên quan tới người lao động, nhưng trong quá trình giải quyết nảy sinh những vấn đề gây ảnh hưởng nhất định đối với lao động di cư.
Trên cơ sở quy định của Điều 55 Hiến chương Liên hợp quốc, không có sự khác biệt về sự đảm bảo và tôn trọng quyền con người đối với chủng tộc người khác nhau, hay nói cách khác, các chủng tộc đểu được hưởng sự bảo đảm quyền con người như nhau, do có quyền bình đẳng nên dẫn đến cơ chế đảm bảo quyền lợi, lao động di cư cũng vì thế mà được hưởng lợi. Những giá trị nào là mục tiêu theo đuổi của tất cả các quốc gia chứ không chỉ là nhiệm vụ duy nhất của Liên hợp quốc.
Hiến chương Liên hợp quốc không trực tiếp quy định các quyền của người đi xuất khẩu lao động nhưng dán tiếp thể hiện tinh thần của các quyền này thông qua các nguyên tắc được Hiến chương ghi nhận. Hiến chương Liên hợp quốc khuyến khích các quốc gia thành viên hợp tác tạo điều kiện và đảm bảo công ăn việc làm cho con người, không phân biệt công dân nước mình hay công dân nước ngoài, tức là gián tiếp thừa nhận vấn đề quyền bình đẳng của người đi xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, Hiến chương đề cập đến việc tôn trọng và tuân thủ quyền con người, tránh phân biệt đối xử dưới mọi hình thức.
TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Bản tuyên ngôn chỉ ra rằng: Mọi người đều có quyền làm việc, quyên tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những quyền lợi làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp; Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối sử nào; Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm đảm bảo sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội; Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người đề ra bốn nguyên tắc:
- Nguyên tắc quyền làm việc
- Nguyên tắc trả công ngang nhau
- Nguyên tắc thù lao công bằng
- Nguyên tắc tự đo lập hội
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
Nếu tuyên ngôn quốc tế về quyền con người không có tinh ràng buộc pháp lý mà chỉ là một bản tuyên ngôn về tiêu chuẩn lý tưởng đối với quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận thì Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) là một công ước quốc tế mang đầy đủ tính ràng buộc pháp lý được xây dựng dưa trên những nguyên tắc của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người.
Các nước tham gia công ước phải cam kết trao các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho các cá nhân, bao gồm quyền công đoàn và quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục, và quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục, và quyền được đảm bảo mức sống phù hợp. Công ước ICESCR là một phần của bộ luật Nhân quyền quốc tế.
Công ước ICESCR quy định các quốc gia thành viên thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này. ICESCR cũng quy dịnh các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt với lao động nhập cư, cụ thể như sau:
- Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo: Tiền lương thỏa đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc như nhau, không có sự phân biệt đối xử; đặc biệt, phụ nư phải được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn những điều kiện nam giới được hưởng, một cuộc sống tương đôi đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp với các quy định của công ước này.
- Thông tin về điều kiện làm việc: Bao gồm việc làm thêm giờ và chế độ nghỉ không lương và có lương cũng như các biện pháp cân bằng giữa công việc, cá nhân và gia đình.
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ BẢO VỀ QUYỀN CỦA TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
Công ước quốc tế về quyền của người lao động di cư và các thành viên trong gia đình họ (MWC) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 18/12/1990. Đến nay, MWC được coi là điều ước quốc tế trực tiếp và toàn diện nhất về cấn đề người lao động di cư. Công ước quy định một hệ thống quyền của người lao động đi xuất khẩu khá toàn diện và cụ thể, đóng vai trò lề nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người lao động. MWC được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc chủ đạo, đó là:
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử (Điều 1)
- Nguyên tắc đối xử quốc gia (national treatment) (Điều 25):
- Nguyên tắc các quyền được áp dụng trong suốt quá trình đi di cư lao động (Điều 1)
Có thể thấy Công ước mang tính thực tế rất cao, không chỉ ở chỗ văn kiện này thưa nhận và tính đến tính đa dạng về nguồn gốc và vị thế của người lao động đi xuất khẩu lao động, mà còn thể hiện ở việc nó tập trung đề cập đến các quyền liên quan đên những khía cạnh mà người lao động thường gặp khó khăn như: quyền về giấy tờ tùy thân, tiếp cận hệ thống tư pháp, dịch vụ xã hội, hồi hương.
CÁC VĂN KIỆN ĐƯỢC KÝ KẾT TRONG KHUÔN KHỔ CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
Trong hệ thống các văn kiện pháp lý do ILO thông qua có khá nhiều văn kiện đề cập đến việc bảo vệ người lao động di cư. Tuy nhiên, có hai công ước quan trọng nhất đóng vai trò nền tảng, đó là Công ước số 97 về lao động di cư vì việc làm (sửa đổi năm 1949) và Công ước số 143 về người đi xuất khẩu lao động trong hoàn cảnh bị lạm dụng, và việc thúc đẩy cơ hội và sự đối xử bình đăng với người lao động. Đây cũng là hai trong tám công ước cơ bản của ILO. Tầm quan trọng đặc biệt của các công ước này của ILO thể hiện ở chỗ tất cả mọi người lao động đi cư đều được bảo vệ bởi các công ước này mà không phân biệt giữa các dạng người lao động cũng như không dựa trên nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia. Thêm vào đó các công ước vận động cho việc xây dựng các hợp đồng lao động, mẫu ký của người lao động và chủ sử dụng như là một công cụ pháp lý hiệu quả.
Bên cạnh hai công ước kể trên, còn cần kể đến Khuôn khổ đa chiều về di cư lao động của ILO trong đối xử với người xuất khẩu lao động đã được các quóc gia thành viên của ILO nhất trí thông qua. Mặc dù đây là một văn kiện không có tính ràng buộc pháp lý nhưng co ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ các quyền của người lao động di cư, bởi lẽ nó chứa đựng những nguyên tắc hướng dẫn hành động dựa trên quyền.
CÁC VĂN KIỆN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
Tuyên bố chung ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người đi xuất khẩu lao động đã khẳng định sự đóng góp của người lao động di cư với xã hội và nền kinh tế của cả các nước tiếp nhận và xuất khẩu lao động ở ASEAN. Bản tuyên bố thừa nhận nhu cầu phải thông qua những chính sách khu vực toàn diện và hợp lý về người xuất khẩu lao động, đồng thời xác định những nguyên tắc và biện pháp về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động trong khu vực.
Tuyên bố xác định những cam kết chung của các nước ASEAN trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền của lao động di cư, cụ thể như sau:
- Thúc đẩy các cơ hội việc làm tử tế, nhân bản, sinh lợi và được tôn trọng nhân phẩm cho lao động xuất khẩu.
- Xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển nguồn nhân lực và các chương trình tái hòa nhập cho lao động di cư ở các quốc gia gốc; thực hiện các biện pháp cụ thể để ngăn chặn, chấm dứt tình trạng đưa lậu và buôn bán người, trong đó bao gồm việc đưa ra các chế tài nghiêm khắc cho những kẻ thực hiện hành vi như vậy.
- Trợ giúp lao động du cư của các nước thành viên ASEAN bị kẹt trong các cuộc xung đột hoặc khủng hoảng ở các nước ngoài ASEAN dựa trên năng lực và nguồn lực của các đại sứ quán và cơ quan lãnh sự của các nước ASEAN, trên cơ sở kết quả tư vấn và các thỏa thuận song phương.
- Khuyến khích các tốt chức quóc tế, các đối tác của ASEAN và các quốc gia khác tôn trọng nguyên tắc và cung cấp sự trợ giúp, hỗ trợ để thực hiện các biện pháp nêu trong tuyên bố bày.
- Bên cạnh các cam kết chung, Tuyên bố nêu ra các biện pháp cụ thể để bảo vệ người lao động thông qua nghĩa vụ của các nước nhận và xuất khẩu lao động.
CƠ CHẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG VIỆC BẢO VỆ LAO ĐỘNG ĐI XUẤT KHẨU.
Hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Việt Nam trong xu thế hội nhập, mở cửa, phù hợp với xu hướng di cư quốc tế hiện nay, góp phần phát triển quan hệ mọi mặt với các nước trên thế giới, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, vì lợi ích quốc gia và dân tộc. Hoạt động này ngày càng mở rông đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, tạo nhiều cơ hội làm việc với thu nhập khá hơn cho người lao động Việt Nam, góp phần nâng cao đời sống của một bộ phận dân cư, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ và kỹ năng.
Trong lĩnh vực di cư lao động, Việt Nam đã ban hành các văn bản sau:
Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật và các văn bản, quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này đã tạo khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi xuất khẩu, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người lao động đi xuất khẩu, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tổ chức xuất khẩu lao động, các tổ chức và cá nhân có liên quan góp phần thúc đẩy di cư hợp pháp, nghiêm cấm và xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật xuất khẩu lao động. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về người Việt Nam đi xuất khẩu lao động quy định rõ trách nhiệm đối với các Bộ, ngành, địa phương, trong đó có Bộ LĐTB&XH được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động.
NHỮNG ƯU VIỆT TRONG VIỆC BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI XUẤT KHẨU
Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động. Các văn bản quy phạm phát luật hiện hành đã tạo được hành lang pháp lý cần thiết để bảo vệ người lao động, việc bảo vệ được trú trọng cả trước, trong và sau quá trình người lao động đi xuất khẩu; nội dung bảo vệ khá toàn diện và phù hợp với tôn chỉ của các Điều ước quốc tế về vấn đề này.
- Pháp luật đã quy định rõ các đối tượng bị điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa lao động đi xuất khẩu, người đi xuất khẩu, người bảo lãnh, các tổ chức, cá nhân có liên quan tới xuất khẩu lao động.
- Đôi với doanh nghiệp, hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động phải có đủ điều kiện để được cấp phép, có đủ năng lực quản lý cũng như xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình người lao động đi xuất khẩu.
- Pháp luật quy định rõ nội dung hoạt động đưa người lao động đi xuất khẩu đã bao trùm từ khi tuyển chọn đến khi thanh lý hợp đồng.
- Quy định rõ hành vi bị nghiêm cấm trong hành vi đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đối với doanh nghiệp, người lao động và cơ quan quản lý.
- Đã có nhiều chính sách cụ thể hóa những quy định của Luật nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi xuất khẩu, đặc biệt là các đối tượng chính sách xã hội như lao động hộ nghèo, dân tộc thiểu số được đi xuất khẩu lao động: hỗ trợ chi phí đào tạo, cho vay tín dụng lãi xuất ưu đãi để đi xuất khẩu và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
NHỮNG HẠN CHẾ TỒN TẠI
Bên cạnh những kết quả đại được trong lĩnh vực người lao động đi xuất khẩu còn có những hạn chế, tồn tại như:
- Mặc dù hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật 72 được đánh giá là đầy đủ và kịp thời nhưng thời gian ban hành một số văn bản còn chậm so với quy định.
- Có quy định chậm được thay đổi và không phù hợp với thực tiễn: Quy định về điều kiện cấp, đổi giấy phép, đăng ký hợp đồng, tuyển chọn lao động.
- Một số quy định của pháp luật không được thực hiện trong thực tế như: Xây dựng và tốt chức thực hiện chiến lược, kế hoạch chính sách về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chưa được ban hành hàng năm. Một số quy định chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết; chính sách đối với cơ sở dạy nghề tạo nguồn xuất khẩu lao động, hình thành các trường dạy nghề đủ đáp ứng nhu cầu thị trường, chính sách hỗ trợ,…
- Một số quy định tuy đã được đưa vào các đề án, dự án nhưng chỉ áp dụng với một số đối tượng đặc thù, không mang tính bao quát như: chính sách hỗ trợ mở rộng thị trường, thị trường có thu nhập cao, đào tạo cán bộ quản lý, khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ đi xuất khẩu,…
- Công tác thông tin truyền thông còn chưa phong phú, phù hợp với người dân ở các vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc để người dân nhận được quyền lợi và trách nhiệm của người lao động đi xuất khẩu
KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
-
Mở rộng phạm vi điều chỉnh hình thức đi xuất khẩu lao động theo hợp đồng để đảm bảo người lao động được đầy đủ quyền lợi về lao động, cư trú và tư cách lưu trú.
-
Điều chỉnh, cụ thể hóa quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động, quyền và trách nhiệm của các doanh nghiệp và khả năng đảm bảo quyền lợi cho người lao động đi xuất khẩu.
-
Trách nhiệm đảm bảo chất lượng nguồn lao động , nâng cao vị thế và quyền lợi của người lao động
-
Xem xét lại quy định nhằm giảm chi phí đi xuất khẩu lao động.
-
Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để giải quyết các vấn đề khi có phát sinh liên quan tới xuất khẩu lao động.
Đọc thêm về